| 🪷 Pháp Thoại: “Tìm Hiểu Về Căn Bản Phật Pháp” - Thượng tọa Thích Tâm Thuần - TVTLPH 🪷 |

Поділитися
Вставка
  • Опубліковано 7 січ 2025

КОМЕНТАРІ • 6

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui День тому

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo.
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
    ( Mỗi Người hãy Tự Mình thấp đuốc lên mà đi, hãy Tự Làm Hòn Đảo Cho Chính Mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là Thường Trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ Tuyệt Đối “; Phật giác ngộ là Tự Mình, Do Trí “ Vô Sư, Chứ Không Phải Trí Hữu Sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của Tất Cả Các Pháp mà giác ngộ vì “ Tất Cả Các Pháp Đều Là Phật Pháp “, “ Như Lai Là Nghĩa Các Pháp Như Như “; “ Tất Cả Chúng Sinh Dù Hữu Tình Hay Vô Tình Đều Có Phật Tánh “; “ Tất Cả Các Pháp Đều Vận Hành Theo Lý “ Duyên Sinh “, “ Nhân Qủa “, “ Phước Nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng Tượng Phật, Chúng ta cố gắng Thường Hình Dung Đức Phật Đản Sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật Thành Đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật Thuyết Pháp ở Ba La Nại và Phật Nhập Diệt ở Câu Thi Na; Đó Chính Là 04 Động Tâm, Tức 04 Điểm Kích Động Tâm Chúng Ta, Tác Động Căn Lành Chúng Ta Khiến Chúng Ta Phát Tâm Đến Với Phật. Nếu Chúng Ta Không Phát Được Tâm Bồ Đề, Đương Nhiên Không Thể Đến Với Phật, Không Thể Hiểu Phật Và Không Thấy Phật ).
    Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
    Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh.
    Nam Mô Pháp : Nhất tâm đảnh lễ : Chúng con nguyện y giáo phụng hành :
    + Nam Mô Đại Thừa Pháp Bảo Tôn Kinh Kinh Phật Thuyết Kinh Vạn Phật.
    Nam Mô Tăng.
    Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
    Chúng Con Thành Tâm Tri Ân Công Đức Của Ngài Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi, Thầy Cố Trưởng Lão Hòa Thượng Thượng Thiền Hạ Tâm và Các Qúy Tôn Đức Khác :
    + Chín mươi mốt kiếp về quá khứ, Có Đức Phật tên Tỳ Bà Thi Như Lai, Phật thọ số tám mươi ngàn kiếp. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Câu Lân, Phật dưới cây Ba Tra La đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có ba nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên Kiết Sa, hai tên Khán Trà. Phật có Thị Giả tên Vô Ưu, Phật có con tên Thành Âm. Phật có Cha tên Bàn Đầu, Mẹ tên Bàn Đầu Ý, thành tên Bàn Đầu.
    忍辱爲第一; 佛說無爲最; 不以剃鬚髮; 害他爲沙門
    Nhẫn Nhục vi đệ nhất; Phật thuyết vô vi tối; Bất dĩ thế tu phát; Hại tha vi Sa Môn.
    Tạm dịch : Nhẫn Nhục là bậc nhất; Niết Bàn là tối thượng; Xuất gia não hại Người; Không xứng danh Sa Môn.
    + Ba mươi kiếp về quá khứ, Có Đức Phật tên Thi Khí Như Lai, Phật thọ số sáu mươi ngàn kiếp. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Câu Lân, Phật dưới cây Phân Đà Lợi đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có ba nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên Tinh Tú, hai tên Thượng. Phật có Thị Giả tên Ly Úy, Phật có con tên Bất Khả Lượng. Phật có Cha tên Câu Na, Mẹ tên Thắng, thành tên A Lầu Na Bạt Đề.
    若眼見非邪; 者不座牀亦復然; 執志爲專一; 是則諸佛敎
    Nhược nhãn kiến phi tà; Tọa sàng diệc phục nhiên; Chấp chí vi chuyên nhất; Thị tắc chư Phật giáo
    Dịch nghĩa : Như mắt thấy sai quấy; Chỗ nằm ngồi cũng vậy; Giữ chí cho chuyên nhất; Là lời Chư Phật dạy.
    + Ba mươi kiếp về quá khứ, Có Đức Phật tên Thi Khí Như Lai, trong kiếp đó lại có Tỳ Xá Phù Như Lai, Phật thọ số hai ngàn kiếp. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Câu Lân, Phật ở dưới cây Ta La đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có hai nhóm Thinh Văn. Phật có Thị Giả tên Tịch, Phật có con tên Thiện Trí. Phật có Cha tên A Lầu Na Thiên Tử, Mẹ tên Xứng Ý, thành tên Tùy Ý.
    不 害 亦 不 非; 奉 行 於 大 戒; 於 食 知 止 足; 座 牀 亦 復 然; 執 志 爲 專 一; 是 則 諸 佛 敎
    Bất hại diệc bất phi; Phụng hành ư đại giới; Ư thực tri chỉ túc; Tọa sang diệc phục nhiên; Chấp chí vi chuyên nhất; Thị tắc chư Phật giáo
    Tạm dịch : Không hại, không sai trái; Luôn hành trì đại Giới; Ăn uống biết dừng đủ; Chỗ nằm ngồi cũng vậy; Giữ chí cho chuyên nhất; Là lời Chư Phật dạy.
    + Trong kiếp Hiền có Phật Câu Lưu Tôn, Phật thọ số mười bốn tiểu kiếp. Phật sanh vào nhà Bà La Môn, Phật họ Ca Diếp, Phật ở dưới cây Ưu Đầu Bạt Đề đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn, Phật có Thị Giả tên Trí, Phật có con tên Thượng. Phật có Cha tên Công Đức, Mẹ tên Quang Bỉ Thiên Tử Vô Úy, thành tên Vô Úy.

    譬如蜂採花; 其色甚香潔; 以味惠施他; 道士遊聚落; 不誹謗於人; 亦不觀是非; 但自觀身行; 諦觀正不正
    Thí như phong thái hoa; Kỳ sắc thậm hương khiết; Dĩ vị huệ thí tha; Đạo Sĩ du tụ lạc
    Bất phỉ báng ư nhân; Diệc bất quán thị phi; Đản tự quán thân hành; Đế quán chánh bất chánh
    Tạm dịch : Như ong hút mật hoa; Hương sắc hoa càng thắm; Đem vị ban cho Người; Tỳ Kheo vào làng xóm
    Không phỉ báng một ai; Thị phi chẳng nhìn đến; Chỉ xét hành vi mình; Có đoan chính hay không.
    + Trong kiếp HIền có Phật Câu Na Hàm Mâu Ni, Phât thọ số ba mươi tiểu kiếp. Phật sanh vào nhà Bà La Môn, Phật họ Ca Diếp, Phật ớ dưới cây Thi Lợi Sa đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử thinh Văn thứ nhất một tên là Hượt ( Sống ), hai tên là Tỳ Đầu La. Phật có Thị Giả tên Thân ( Gần ), Phật có con tên Thắng. Phật có Cha tên Hỏa Đức, Mẹ tên Nan Thắng Thiên Tử Trang Nghiêm, thành tên Trang Nghiêm.
    執志莫輕戲; 當學尊寂道; 賢者無愁憂; 當滅志所念
    Chấp chí mạc khinh hý; Đương học tôn tịch đạo; Hiền giả vô sầu ưu; Đương diệt chí sở niệm.
    Tạm dịch : Giữ tâm chớ khinh đùa; Cần học đạo tịch diệt; Hiền giả không sầu lo; Quyết tâm diệt sở niệm.
    + Trong kiếp Hiền có Phật Ca Diếp, Phật thọ số hai mươi tiểu kiếp. Phật sanh vào nhà Bà La Môn, Phật họ Ca Diếp, Phật ở dưới cây Ni Câu Luật đắc quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên là Du Na, hai tên là Phạ La Đọa. Phật có Thị Giả tên Ca Thiên, Phật có con tên Đạo Sư. Phật có Cha tên Tịnh Đức, Mẹ tên Thiện Tài Thiên Tử Tri Sử, thành tên Tri Sử ( thành Ba La Nại ).

    一切惡莫作; 當奉行其善; 自淨其志意; 是則諸佛敎
    Nhất thiết ác mạc tác; Đương phụng hành kỳ thiện; Tự tịnh kỳ chí ý; Thị tắc chư Phật giáo
    Tạm dịch : Đừng làm các điều Ác; Vâng làm các điều Thiện; Giữ Tâm ý trong sạch; Là lời Chư Phật dạy.
    + Trong kiếp Hiền có Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật thọ số chỉ trong vòng một trăm năm. Phật sanh vào nhà Sát Đế Lợi, Phật họ Cù Đàm, Phật ở dưới cây A Thuyết Tha đặng A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, Phật có một nhóm Thinh Văn. Hàng Đệ tử Thinh Văn thứ nhất một tên là Xá Lợi Phất ( Trí Tuệ Đệ Nhất ), hai tên là Mục Kiền Liên ( Thần Thông Đệ Nhất ). Phật có Thị Giả tên Khánh Hỷ ( A Nan Đà ), Phật có con tên La Hầu La. Phật có Cha tên Du Đầu Đàn ( Tịnh Phạn Vương ), Mẹ tên Ma Ha Ma Da, thành tên Ca Tỳ La.
    護口意清淨; 身行亦清淨; 淨此三行迹; 修行仙人道
    Hộ khẩu ý thanh tịnh; Thân hành diệc thanh tịnh; Tịnh thử tam hành tích; Tu hành tiên nhân đạo
    Tạm dịch : Giữ miệng, ý thanh tịnh; Thân hành cũng trong sạch; Ba nghiệp đều thanh tịnh; Đạo Như Lai tu hành.
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui День тому

    Nam Mô Phật : Nhất tâm đảnh lễ :
    + Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo.
    + Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Mi Đà Phật.
    + Đông Phương Giáo Chủ Tiêu Tai Diên Thọ Tịnh Lưu Ly Thế Giới Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật.
    + Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
    ( Mỗi Người hãy Tự Mình thấp đuốc lên mà đi, hãy Tự Làm Hòn Đảo Cho Chính Mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là Thường Trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ Tuyệt Đối “; Phật giác ngộ là Tự Mình, Do Trí “ Vô Sư, Chứ Không Phải Trí Hữu Sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của Tất Cả Các Pháp mà giác ngộ vì “ Tất Cả Các Pháp Đều Là Phật Pháp “, “ Như Lai Là Nghĩa Các Pháp Như Như “; “ Tất Cả Chúng Sinh Dù Hữu Tình Hay Vô Tình Đều Có Phật Tánh “; “ Tất Cả Các Pháp Đều Vận Hành Theo Lý “ Duyên Sinh “, “ Nhân Qủa “, “ Phước Nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng Tượng Phật, Chúng ta cố gắng Thường Hình Dung Đức Phật Đản Sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật Thành Đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật Thuyết Pháp ở Ba La Nại và Phật Nhập Diệt ở Câu Thi Na; Đó Chính Là 04 Động Tâm, Tức 04 Điểm Kích Động Tâm Chúng Ta, Tác Động Căn Lành Chúng Ta Khiến Chúng Ta Phát Tâm Đến Với Phật. Nếu Chúng Ta Không Phát Được Tâm Bồ Đề, Đương Nhiên Không Thể Đến Với Phật, Không Thể Hiểu Phật Và Không Thấy Phật ).
    ( Thiên Thượng Thiên Hạ. Duy Ngã Độc Tôn. Nhất Thiết Thế Gian. Thành, Trụ, Hoại, Diệt ).
    Bảy đóa sen vàng nâng góc ngọc, Ba ngàn thế giới đón Như Lai.
    Không làm các điều ác. Siêng làm các điều lành. Giữ tâm ý trong sạch. Là lời Chư Phật dạy.
    Chư Pháp tùng Duyên sanh, Diệc tùng nhân Duyên diệt. Ngã Phật Ðại Sa Môn, Thường tác như thị thuyết.
    ( Các pháp do nhân Duyên sanh, Cũng do nhân Duyên diệt. Ðức Phật của Chúng ta, Thường dạy nói như vậy. )
    Chư hành vô thường, Thị sinh diệt pháp, Sinh diệt diệt dĩ, Tịch diệt vi lạc.
    ( Các hành vô thường, Là pháp sinh diệt, Sinh diệt hết rồi, Tịch diệt là vui ).
    Thân bất tịnh, Thọ là khổ, Tâm vô thường, Pháp vô ngã.
    Phật xưa hiếu thảo kể hằng sa
    Đến kiếp hiện nay cũng đậm đà
    Đao Lợi Thiên Cung về viếng Mẹ
    Ca Tỳ La Vệ đến tìm Cha
    Khom lưng đảnh lễ đồi xương trắng
    Đưa mặt cho hôn một mẫu già
    Đến thác kim quan còn bật nắp
    Soi cùng hiếu tử ai dám qua.
    Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng ( wheresoever are material characteristics there is delusion ).
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
    + Nhiên Đăng Phật
    + Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật
    + Đề Xá Phù Phật
    + Ca Sa Tràng Phật
    + Phất Sa Phật
    + Chánh Pháp Minh Phật
    + Long Hoa Giáo Chủ Đương Lai Hạ Sanh Từ Thị Di Lặc Tôn Phật
    + Biến Xuất Nhất Thiết Công Đức Quang Minh Sang Vương Như Lai.
    + Thiện Trụ Trân Bảo Như Lai
    + Văn Thù Phật
    + Phổ Hiền Phật
    + Ngũ Trí Nghiêm Thân Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
    + Thập Quảng Đại Nguyện Vương Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát
    + Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
    + Hộ Pháp Tạng Bồ Tát
    + Nhĩ Căn Viên Thông Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Đại Từ Đại Bi Linh Cảm Ứng Bạch Y Quán Thế Âm Bồ Tát.
    ( Lực, Hùng, Bi, Trí viên dung. Mười hai Đại Nguyện quả công viên thành / Từ Bi cứu khổ độ đời. Tầm thinh giải nạn đến nơi an lành ).
    + Vô Biên Quang Chí Thâm Đại Hùng, Đại Lực Đại Thế Chí Bồ Tát.
    + U Minh Giáo Chủ Đại Bi, Đại Nguyện, Đại Thánh, Đại Từ Bổn Tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát.
    ( Địa ngục vị không thệ bất thành Phật. Chúng Sinh độ tận phương chứng Bồ Đề )
    + Phước Trí Nhị Nghiêm Thân Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát
    + Liên Trì Hải Hội Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
    + Đại Thừa Vô Lượng Thọ Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
    + Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
    + Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
    + Thập Nhị Dược Soa Đại Thần Tướng
    + Dược Sư Hải Hội Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
    + Hoa Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
    + Pháp Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
    + Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
    + Đại Bát Niết Bàn Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
    + Lăng Nghiêm Hội Thượng Phật Bồ Tát Ma Ha Tát
    + Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    ……

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui День тому

    Đức Phật Lịch Sử - Đức Phật Thích Ca Mâu Ni : ( Đoạn 2 ) :
    Đã lâu ở Ấn Độ, có một Vị Vua tên Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Maya. Cả hai đều tốt bụng và tử tế. Vào một đêm trăng rằm, Hoàng Hậu nằm mơ thấy bốn Chư Thiên. Họ kiệu Bà đến bên hồ, cho nằm lên giường êm. Một con voi trắng đem hoa sen đi vòng quanh Bà ba lần rồi biến mất vào trong Bà. Các nhà thong thái giải thích rằng Hoàng Hậu sắp sinh một Hoàng Tử.
    Đến lúc sanh nở, Hoàng Hậu Maya rời hoàng cung mang theo tùy tùng trở về quê Cha Mẹ ruột để sanh nở. Trên đường họ ghé qua một công viên xinh đẹp tên là vườn Lâm Tỳ Ny.
    Hoàng Hậu Maya nghỉ ngơi trong vườn. Trong khi đứng lên tựa vào cành cây thì Bà hạ sanh. Việc sanh nở xảy ra vào tháng năm Vesak, nhằm ngày trăng rằm 623 trước công nguyên. Ta gọi đó là ngày Vesak hay ngày Phật Đản. Sau đó Hoàng Hậu Maya trở về hoàng cung mang theo Vị Hoàng Nam. Vua Tịnh Phạn rất đỗi vui mừng và làm lễ kỷ niệm ngày sinh của con cùng thần dân cả nước.
    Năm ngày sau khi sanh Thái Tử, nhiều nhà thông thái được mời đến hoàng cung nhân Lễ Đặt Tên. Họ nhìn vào đặc điểm trên cơ thể đứa bé. Bảy Vị thông thái giơ hai ngón tay, nói rằng Thái Tử hoặc trở thành bậc Chuyển Luân Thánh Vương hoặc là một Vị Phật. Người trẻ nhất là A Tư Đà chỉ giơ lên một ngón tay, nói rằng Thái Tử sẽ thành một Vị Phật. Sau đó Thái Tử được các nhà thông thái đặt tên “ Tất Đạt Đa ”, có nghĩa “ trọn vẹn niềm mơ ước ”.
    Bảy ngày sau khi hạ sanh, Hoàng Hậu Maya qua đời. Kiều Đàm Di, em gái Hoàng hậu, được tiến cung làm vợ Vua Tịnh Phạn, nuôi dưỡng Thái Tử như chính con mình.
    Thái Tử lớn lên khôi ngô, quảng đại. Chàng được mọi người yêu mến. Khi tuổi còn nhỏ, Thái Tử Tất Đạt Đa đã chứng kiến một con chim ăn con giun bị nông dân xới cày lên. Cảnh tượng này làm chàng nghĩ về tình huống bất hạnh của các sinh vật vốn làm mồi cho các sinh vật khác.
    Ngồi dưới cây hồng táo, Vị Thái Tử trẻ hưởng lạc thú của Thiền định. Có một dịp khác, Vị Thái Tử nhân từ cứu mạng sống của con thiên nga bị thương bởi mũi tên của Đề Bà Đạt Đa.
    Vì là Vị Thái Tử, Vị Hoàng nam Tất Đạt Đa tiếp nhận được nền giáo dục về nghệ thuật, khoa học, đồng thời tinh thông nghệ thuật chiến tranh và các môn thể thao hoàng cung lúc bấy giờ.
    Lúc lên 16, Thái Tử Tất Đạt Đa lập gia đình với nàng công chúa trẻ xinh đẹp là Da Du Đà La. Nàng thương yêu và chăm sóc chàng, cùng sống cuộc đời Vương giả xa hoa được gần 13 năm. Chàng được che chở không thấy mọi vấn đề của cuộc sống ngoài cổng lâu đài. Chàng hưởng mọi tiện nghi mà một Vị con Vua thời đó từng ước muốn. Chàng sống trong một thế giới chỉ có hạnh phúc và tiếng cười. Tuy nhiên có một ngày, chàng ước mong khám phá thế giới bên ngoài hoàng cung.
    Khi nhà Vua biết được điều này, Ông ra lệnh thần dân : “ Nhà cửa dọc theo đường đến hoàng cung phải được trang hoàng sạch sẽ và đẹp đẽ. Đường phố ngào ngạt đầy hương hoa, dân chúng ăn mặc quần áo sặc sỡ. Mọi gã ăn xin, người già, người bệnh phải ở trong nhà đến khi Thái Tử đi khỏi ”
    Cho dù ý định của Vua Cha tốt cỡ nào, Thái Tử Tất Đạt Đa đã tìm ra bản tính thật của cuộc sống con người. Suốt cuộc du ngoạn bên ngoài bức tường hoàng cung, chàng chứng kiến những điều làm cho chàng suy nghĩ sâu xa về mọi nỗi khổ đau trên thế giới. Lúc đó chàng biết rằng mình sẽ phải thay đổi cuộc sống hoàn toàn để tìm câu trả lời mà chàng đang tìm kiếm. Để Thái Tử không nghĩ về việc rời bỏ hoàng cung, Vua Tịnh Phạn cho xây một lâu đài hỷ lạc dành cho Tất Đạt Đa và Da Du Đà La. Các vũ công, các đội ca múa tiêu khiển họ, chỉ những thanh niên mới được phép vào hoàng cung. Vua không muốn Tất Đạt Đa biết rằng mọi người trở nên bệnh, già, sẽ chết. Nhưng Thái Tử vẫn không vui. Chàng muốn biết cuộc sống của những người sống bên ngoài bức tường hoàng cung là như thế nào.
    Sau một thời gian, Thái Tử vẫn không sống vui vẻ trong lâu đài. Chàng muốn ra ngoài, chứng kiến cách mọi người sinh sống. Chàng ra khỏi hoàng cung cùng thị vệ là Sa Nặc. Họ rời hoàng cung bốn lần.
    Chuyến đầu tiên, Thái Tử chứng kiến một người già. Chàng biết rằng mọi người đều phải già.
    Lần thứ hai, Thái Tử thấy một người bệnh. Chàng hiểu rằng mọi người đều có thể bị bệnh bất cứ lúc nào.
    Ra đi lần thứ ba, chàng thấy một người chết. Chàng hiểu rằng một ngày nào đó ai cũng phải chết.
    Chuyến cuối cùng, Thái Tử thấy một nhà tu rất an lạc. Chàng quyết định ra đi để có thể cứu giúp loài người tìm được an bình và hạnh phúc.
    Tất Đạt Đa lặng lẽ ngắm nhìn đứa con mới sinh lần cuối. Vợ chàng đang an giấc cùng đứa bé bên cạnh, cánh tay nàng làm gối kê cho trẻ. Vị Thái Tử tự nhủ : “ Nếu ta cố dời tay của nàng ra thì có thể vuốt ve đứa bé lần cuối; ta sợ rằng sẽ đánh thức nàng, nàng sẽ ngăn cản không cho ta đi. Không ! Phải đi, chừng nào ta tìm thấy những gì mình ước vọng thì sẽ trở về gặp lại con và vợ ”.
    Tất Đạt Đa rời hoàng cung. Lúc đó là nửa đêm, Thái Tử cưỡi con ngựa trắng tên Kiềng Trắc cùng thị vệ Sa Nặc, người đầy tớ trung thành, nắm đuôi con ngựa chạy phía sau. Chàng đi xa để tìm hiểu về tuổi già, bệnh, tử vong. Chàng cưỡi ngựa đến bờ sông, xuống ngựa. Chàng cởi bỏ châu báu, quần áo Vương giả, đưa cho Sa Nặc đem về cho Vua. Sau đó Thái Tử rút gươm, cắt mái tóc dài, khoác lên chiếc áo nhà tu, mang bình bát khất thực và bảo Sa Nặc trở về hoàng cung cùng với con Kiềng Trắc.
    Sau khi rời hoàng cung, Tất Đạt Đa quyết tâm khám phá ý nghĩa của sự hiện hữu. Chàng theo học với Các Vị Thầy có tiếng nhất thời đó, sống cuộc đời khắc nghiệt của một nhà tu khổ hạnh. Tuy nhiên chàng vẫn không thấy gần hơn với Chân Lý. Khúc ngoặt bắt đầu khi chàng suýt chết đói. Chẳng bao lâu sau đó chàng đạt được sự giác ngộ dưới cây Bồ Đề.
    Lúc đó 29 tuổi, Tất Đạt Đa bắt đầu cuộc sống vô gia cư như người Tu Sĩ. Từ thành Ca Tỳ La Vệ, chàng đi về hướng nam đến Rajagaha, thủ đô Vương quốc Ma Kiệt Đà. Vua xứ này là Vua Bình Sa Vương. Một buổi sáng sau khi Tất Đạt Đa đến, chàng vào thành phố, xin bữa ăn trong ngày bằng cách đi từ nhà này qua nhà khác với một cái bình bát.
    Tất Đạt Đa đi lang thang theo dòng sông Hằng tìm Các Thầy tâm linh. Alara Kalama và Uddaka Ramaputta được xem là hai người Thầy hay nhất về Thiền định thời đó, vì thế chàng đến xin thọ giáo.
    Trước nhất chàng học với Uddaka Ramaputta, sau đó với Alara Kalama. Chàng thấu triệt mọi lời giáo huấn rất nhanh, nhưng vẫn không học được cách để chấm dứt khổ đau. Chàng tự nhủ : “ Ta phải tự tìm chân lý ”.
    Cùng với năm người bạn, Tất Đạt Đa vào rừng sống gần ngôi làng Ưu Lâu Tần Loa. Ở đây có nhiều Bậc Thánh tu cư ngụ, tự hành hạ thân xác bằng sự khổ hạnh khắc nghiệt. Họ tin rằng nếu cơ thể họ phải chịu đau khổ vật chất khắc nghiệt thì họ sẽ hiểu được chân lý. Một số ngủ trên giường chông. Tất cả đều ăn rất ít đến nỗi chỉ còn da bọc xương.
    Tất Đạt Đa tìm một nơi yên tĩnh trên bờ sông gần đó. Nơi đây chàng tập khổ hạnh khắc nghiệt nhất. Nằm trên giường gai. Chàng chỉ ăn mỗi ngày một hạt lúa mì, một hạt mè.
    Những lúc khác càng không ăn gì cả. Cơ thể héo mòn đến khi chỉ còn lớp da mỏng manh bao phủ xương. Những loài chim làm tổ trên mái tóc bện dày, các lớp đất bao phủ cơ thể khô hốc. Tất Đạt Đa hoàn toàn ngồi yên tĩnh, thậm chí không xua đuổi loài côn trùng.
    ......

  • @TinhanhnguyenBui
    @TinhanhnguyenBui День тому

    Nam Mô Thập Phương Thường Trụ Tam Bảo.
    Nam Mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
    ( Mỗi Người hãy Tự Mình thấp đuốc lên mà đi, hãy Tự Làm Hòn Đảo Cho Chính Mình. Tin chắc rằng : Phật, Pháp, Tăng là Thường Trụ, Phật luôn ở trạng thái Niết Bàn “ Tuyệt Đối “; Phật giác ngộ là Tự Mình, Do Trí “ Vô Sư, Chứ Không Phải Trí Hữu Sư “; Phật quan sát và nhìn cuộc đời, sự vận hành của Tất Cả Các Pháp mà giác ngộ vì “ Tất Cả Các Pháp Đều Là Phật Pháp “, “ Như Lai Là Nghĩa Các Pháp Như Như “; “ Tất Cả Chúng Sinh Dù Hữu Tình Hay Vô Tình Đều Có Phật Tánh “; “ Tất Cả Các Pháp Đều Vận Hành Theo Lý “ Duyên Sinh “, “ Nhân Qủa “, “ Phước Nghiệp “……; Khi chiêm ngưỡng Tượng Phật, Chúng ta cố gắng Thường Hình Dung Đức Phật Đản Sanh ở Ca Tỳ La Vệ, Phật Thành Đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, Phật Thuyết Pháp ở Ba La Nại và Phật Nhập Diệt ở Câu Thi Na; Đó Chính Là 04 Động Tâm, Tức 04 Điểm Kích Động Tâm Chúng Ta, Tác Động Căn Lành Chúng Ta Khiến Chúng Ta Phát Tâm Đến Với Phật. Nếu Chúng Ta Không Phát Được Tâm Bồ Đề, Đương Nhiên Không Thể Đến Với Phật, Không Thể Hiểu Phật Và Không Thấy Phật ).
    Nam Mô Thường Tịch Quang Độ Thanh Tịnh Diệu Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật.
    Nam Mô Thập Đại Thị Giả, Tôn Giả, Thập Tam Đại Tỳ Kheo Ni, Một Ngàn Hai Trăm Năm Mươi Năm Vị Tôn Giả, Trưởng Lão, Đại Đức, Sáu Ngàn Vị Sa Di Ni, Hòa Thượng, Ni Trưởng, Sư, Thượng Tọa, Ni Sư, Đại Đức, Sư Cô, Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, Thức Xoa Ma Na, Sa Di, Sa Di Ni, Tứ Chúng, Tinh Xá, Đạo Tràng, Tăng Đoàn Của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Tăng Đoàn Của Các Đức Phật Khác Trong Ba Thời Qúa Khứ, Hiện Tại, Vị Lai.
    Nam Mô Thuyết Pháp Đệ Nhất Phú Lâu Na Ni Đa La Ni Tử ( Purnamaitrayaniputra - Punnamantaniputta ) Tôn Giả.
    Nam Mô Trì Giới Đệ Nhất Ưu Bà Ly ( Upali ) Tôn Giả.
    + Chúng con xin nguyện : “ Lấy Pháp, Giới, Luật Làm Thầy - Nghiêm Trì Giới, Luật “.
    Nam Mô Đệ Nhất Về Tu Thiền Ly Bà Đa ( Kaṅkhārevata ) Tôn Giả.
    + Chúng con cố gắng giữ cho Thân, Khẩu, Ý được thanh tịnh, tỉnh thức trong từng sát na, hơi thở.
    Nam Mô Luận Nghị ( Hùng Biện ) Đệ Nhất Đại Ca Chiên Diên ( Mahā Kaccāna, Maha Kaccayana, Katyayana ) Tôn Giả.
    Nam Mô Phúc Lành Đầu Tiên, Phúc Điền Đệ Nhất ( s, p : Piṇḍola - Bharadvāja, 賓頭盧頗羅墮) Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà Tôn Giả ( Tân Đầu Lô Phả La Đọa Thệ ( 賓頭盧頗羅墮誓 ), Phả La Đọa ( s : Bharadvāja, 頗羅墮 ), Tân Đầu Lô ( 賓頭盧 ) hay Tân Đầu ( 賓頭 ); Trường Mi Tăng ( 長眉僧 ) hay Trường Mi Sa Môn ( 長眉沙門 ) ).
    Nam Mô Thần Thông Đệ Nhất Đại Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Tôn Giả.
    Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên ( Mahà Moggallàna ) Bồ Tát.
    ( ……Dù Cha ra sao vẫn luôn là Đấng Sinh Thành - Dù Mẹ làm sao cũng luôn mang nặng đẻ đau ……).
    Nam Mô Tây Thiên ( Ấn Độ ), Đông Độ ( Trung Hoa ), An Nam ( Việt Nam ), Xiêm La ( Thái Lan ) Truyền Giáo Lịch Đại Tổ Sư Giác Linh.
    Nam Mô Pháp
    Nam Mô Tăng.
    Nam Mô Phật. Nam Mô Pháp. Nam Mô Tăng.
    ……
    “ Hương các loại hoa thơm, Không ngược bay chiều gió, Nhưng hương người đức hạnh, Ngược gió khắp tung bay. Chỉ có bậc chân nhân, Tỏa khắp mọi phương trời “
    “ Hoa chiên đàn, già la; Hoa sen, hoa vũ quý; Giữa những hương hoa ấy; Giới hương là vô thượng “
    “ Ít giá trị hương này; Hương già la, chiên đàn; Chỉ hương người đức hạnh; Tối thượng tỏa Thiên giới ”
    ……
    Chúng con thành tâm cầu nguyện, cầu mong cho tất cả pháp giới chúng sinh thường xuyên : quy y ba ngôi quý báu Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo; sám hối, thiền định ( Như Lai Thiền, Tổ Sư Thiền ), niệm Phật - Pháp - Tăng Tam Bảo, đọc - thâm nhập ý nghĩa - trì tụng - hành theo lời dạy của Chư Phật, Tổ, Hiền Thánh Tăng thông qua Khế Kinh ( Kinh ), Luật, Luận, Lời Thuyết Pháp, nghiêm trì giới Luật ( Khai - giá - trì - phạm, đặc biệt chúng con vô cùng tán thán, ca ngợi công đức Chư Vị Qúy Tôn Đức, những vị thọ giới và những Qúy Tôn Đức, Hòa Thượng, Thượng Tọa,......những vị Đường Đầu Hòa Thượng Đàn Giới Bồ Tát, Tỳ Kheo; Tuyên Luật Sư, Yết Ma A Xà Lê; Giáo Thọ A Xà Lê; Giới Sa Di; Sa Di Và Tu Nữ và chư vị tôn chứng ), tìm hiểu đạo đức, phương pháp tu học của Qúy Tôn Đức. Chẳng hạn như Các Qúy Tôn Đức, bốn chúng đệ tử của Đức Phật trong cả ba thời ( không nên sanh tâm phân biệt các môn phái, tông phái khác nhau trong đạo Phật : Bắc Tông, Nam Tông, Tịnh Độ, Thiền Tông, Mật Tông, Khất Sĩ.......vì trong đạo Phật đây là những phương tiện tu tập để cũng chỉ nhắm mục đích sau cùng là đạt tịch tịnh, an lạc, giải thoát, chứng thánh, tùy theo căn cơ, phước duyên, ước nguyện của mỗi người mà chọn phương pháp tu thích hơp, không nên công kích các pháp môn, chỉ coi trọng pháp môn mình tu học mà chê bai pháp môn của người khác, nên giữ tâm bình đẳng chân thật. Điều này đặc biệt đúng trong giai đoạn Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế Ngài không có chia tông phái mà chỉ có duy nhất Tăng Đoàn với người đứng đầu, giáo chủ, lãnh đạo thống nhất giáo hội là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Khi Đức Phật nhập “ Đại Niết Bàn “ ( Nhưng cũng cần khẳng định lại chắc chắn một lần nữa với tất cả mọi người, với tất cả chúng sinh, những người có duyên với đạo Phật là “ lời Phật ” là chánh ngữ, chơn ngữ, thật ngữ, thời ngữ, là vi diệu đệ nhất, Đức Phật là vô vi, chẳng nhập Niết Bàn bằng chứng là Đức Phật vẫn còn “ hiện diện “ trên thế gian thông qua Tăng Đoàn, giáo Pháp, giới Luật,……mà Ngài đã dạy, truyền lại cho hậu thế đời sau nổ lực bước lên “ con đường giải thoát mà Đức Phật đã đi qua, dẫn dắt chúng sinh tinh tấn, dũng khí bước tiếp theo Ngài, mở ánh sáng trí tuệ đẩy lùi bóng tối vô minh, hướng tới an lạc, giải thoát cho tất cả pháp giới chúng sinh hữu tình hay vô tình ). Thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế thì Ngài thuyết pháp, giáo hóa, ban hành giới luật thống nhất chung cho Tăng Đoàn theo phương thức : " Tùy duyên thuyết pháp, tùy phạm chế giới " và khi Ngài thuyết một bài pháp, bài giảng đạo lý nào thì Ngài cũng không ép buộc hay bắt ép bất kỳ ai phải chấp nhận liền mà Ngài khuyên hãy " quán thật sâu, suy nghĩ, chiêm nghiễm thật kỹ tất cả các pháp đang diễn ra, được nghe, được thấy phải xét kỹ ở trong tĩnh thức nếu cho đó là đứng thì hãy nên thực hiện theo " vì Ngài ( có lẽ Đức Phật là vị giáo chủ duy nhất trên thế giới này ) cho rằng " giáo pháp của Ngài cũng giống như con rắn độc nếu áp dụng không đúng, hợp với thế lý, thế cơ " thì con rắn đó sẽ quay lại cắn lại chính người đó. Ngài cũng không thọ giáo cho bất kỳ ai đứng đầu giáo hội ( không phải vì Ngài không tin tưởng bất cứ ai mà Ngài không giao phó mà mục đích cốt lõi chính sau cùng của Đức Phật là Ngài cũng chỉ muốn nhìn thấy được : Tăng Đoàn có giới Luật, trật tự, quy cụ, biết đoàn kết, yêu thương, đùm bọc lẫn nhau, tránh sự công kích từ bên ngoài, tránh sự đấu tranh đễ đoạt ngôi vị “ giáo chủ “ ở bên trong,…… ) mà Ngài chỉ khuyên dạy cho Tăng Đoàn, tất cả đệ tử xuất gia, tại gia, người có tín tâm, có duyên với đạo Phật nên lấy " giới Luật Ba La Đề Mộc Xoa làm Thầy ", điều này sẽ giúp tạo ra giới Luật, quy cụ, trật tự, thống nhất, đoàn kết trong Tăng Đoàn tăng lên, cụ thể như sau :
    Đức Phật Lịch Sử - Đức Phật Thích Ca Mâu Ni : ( Đoạn 1 ) :
    Để biết Phật là ai, bạn cần đi ngược lại từ đầu. Phật sống ở Ấn Độ cách nay hơn 2.500 năm. Giáo pháp của Ngài được xem là Đạo Phật. Khi còn bé, Tất Đạt Đa, vị Phật tương lai, rất thích Thiền định. Đây là cách Ngài đạt được giác ngộ. Giáo pháp của Ngài giúp mọi người sống Trí tuệ và Hạnh phúc.
    Vị anh hùng của câu chuyện là Thái Tử Tất Đạt Đa, vị Phật tương lai, người sống cách nay hơn 2500 năm. Cha Ngài thuộc dòng dõi hoàng tộc Thích Ca, Vua Tịnh Phạn, Mẹ là Hoàng hậu Ma Da. Họ sống ở Ấn Độ, trong thành phố mang tên Ca Tì La Vệ, nằm dưới chân đồi của dãy Hy Mã Lạp Sơn. Họ thuộc giai cấp chiến binh Ấn Độ.
    ......