PC. 383. XXVI. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 1 (dhp 383)-HT.TUỆ SIÊU & HT.GIÁC ĐẲNG
Вставка
- Опубліковано 13 гру 2024
- Lớp Phật Pháp Buddhadhamma
Môn học: PĀLI PHÁP CÚ
Bài học thứ năm 5.12.2024
XXVI.Phẩm Bà La Môn(Brahmaṇavagga)
Gồm 41 bài kệ với 40 duyên sự
XXV. Phẩm Bà La Môn_Kệ số 1 (dhp 383)
Chánh văn:
1. Chinda sotaṃ parakkamma
kāme panuda brāhmaṇa
saṅkhārānaṃ khayaṃ ñatvā
akataññū’ si brāhmaṇa.
(dhp 383)
Thích văn:
Chinda [động từ mệnh lệnh cách, parassapada, ngôi II, số ít, “chid + m_a + a”] hãy cắt đứt.
Sotaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ sota] dòng chảy, dòng nước, Ái lưu.
Parakkamma [bất biến quá khứ phân từ của động từ parakkamati] sau khi nỗ lực, sau khi cố gắng.
Kāme [đối cách, số nhiều, nam tính, danh tư kāma] các dục, các dục lạc.
Panuda [động từ mệnh lệnh cách, parassapada, ngôi II, số ít, “pa + nud + a + a”] hãy dẹp bỏ.
Brāhmaṇa [hô cách, số ít, nam tính, danh từ brāhmaṇa] này bà la môn, hỡi Phạm chí.
Saṅkhārānaṃ [chỉ định cách, số nhiều, nam tính, danh từ saṅkhāra] các hành, các pháp hửu vi.
Khayaṃ [đối cách, số ít, nam tính, danh từ khaya] sự diệt tận, sự hoại diệt.
Ñatvā [bất biến quá khứ phân từ của động từ jānāti (ña)] sau khi hiểu biết, sau khi hiểu rõ.
Akataññū’ si [hợp âm akataññū asi]
Akataññū [chủ cách, số ít, nam tính, danh từ hợp thể akataññū (akata + ñū)] hiểu pháp vô vi, người ngộ pháp vô vi.
Asi [động từ hiện tại, tiến hành cách, parassapada, ngôi II, số ít, “as + a + i”] ngươi là.
Việt văn:
1. Hãy nổ lực cắt dòng,
phạm chí, hãy dẹp dục.
khi biết Hành đoạn tận
ngươi chứng pháp vô vi.
(pc 308)
Chuyển văn:
1. Brahmaṇa parakkamma sotaṃ chinda kāme panuda, brahmaṇa saṅkhārānaṃ khayaṃ ñatvā akataññū asi.
1. Hỡi Bà la môn, hãy nổ lực cắt đoạn dòng ái, hãy dẹp bỏ các dục; Hỡi phạm chí, sau hiểu được đoạn tận các pháp hửu vi, ngươi sẽ là bậc chứng pháp vô vi.
Duyên sự:
Bài kệ nầy đức Phật thuyết khi Ngài trú tại Jetavana gần thành Sāvatthi, do chuyện người bà la môn giàu niềm tin.
Người bà la môn ấy sau khi nghe pháp của đức Thế Tôn, có tâm tịnh tín nên đã thiết lễ trai phạn thường xuyên tại nhà của mình, dâng cúng đến mười sáu vị tỳ kheo. Khi ông ta nói cái gì đều nói liên hệ đến danh từ Arahanta (bậc A la hán), như: “Thỉnh chư tôn đức Arahanta đến! Thỉnh chư tôn đức Arahanta ngồi!...v.v…
Trong số các tỳ kheo ấy, những vị phàm tăng đã suy nghĩ “người nầy tưởng chúng ta là Arahanta (A la hán); còn những vị Thánh tăng Lậu tận thì suy nghĩ: “Người nầy biết chúng ta là bậc Lậu tận”. Nên tất cả các vị ấy đều ái ngại mà không đi đến nhà của người bà la môn nữa.
Người bà la môn ấy đau khổ sầu muộn: “Tại sao quí Ngài không đến?”. Ông ta liền đi đến tịnh xá đảnh lễ bậc Đạo sư và trình bày việc ấy. Đức Phật gọi chư tỳ kheo và hỏi: “Này chư tỳ kheo, sự việc đó là thế nào ?”, chư tỳ kheo đã thưa lại việc ấy. Ngài dạy “Này các tỳ kheo, các ngươi hãy chấp nhận tiếng gọi Arahanta” _ “Bạch Thế Tôn, chúng con không chấp nhận được” _ “Ngôn từ đó được nói ra bởi lòng tịnh tín, Này các tỳ kheo, không tội lỗi khi chấp nhận ngôn từ được nói với lòng ngưỡng mộ; Hơn nữa, đó là lòng thương kính vô hạn của người bà la môn đối với các bậc A la hán. Cũng chính vì thế, các ngươi hãy cắt đứt dòng Ái để chứng đạt quả vị A la hán cho hợp lẻ”. Nói xong đức Phật đã thuyết lên kệ ngôn nầy: Chinda sotaṃ parakkamma…v.v…akataññūsi brāhmaṇā’ ti.
Dứt kệ ngôn, nhiều vị tỳ kheo đã đắc chứng thánh quả.
Lý giải:
Trong kệ ngôn nầy, câu nói “Hãy nổ lực cắt dòng Ái” (chinda sotaṃ parakkamma) nên hiểu ý nghĩa là, sotaṃ tức taṇhāsotaṃ (ái lưu, dòng ái); parakkamma tức parakkamitvā (sau khi nổ lực). Dòng ái không thể cắt dứt với sự dứt với sự tinh tấn bình thường (Na appamattakena vāyāmena chindituṃ sakkā) mà chỉ có thể cắt đứt bằng sự nổ lực lớn tương ưng trí (ñāṇasampayuttena mahantena parakkamena).
Câu nói “Hãy dẹp dục” (kāme panuda) nghĩa là hãy dẹp bỏ cả hai thứ dục: vật dục (vatthukāma_sắc, thinh, hương, vị, xúc) và phiền não dục (kilesakāma_sự tham luyến ngũ trần hay dục ái).
Danh từ Phạm chí hay Bà la môn (brāhmaṇa) trong phẩm XXVI nầy dùng xưng gọi các bậc Lậu tận (A la hán). Nhưng riêng trong bài kệ nầy đức Phật dùng tiếng brāhmaṇa hô cách, để gọi vị tỳ kheo mà Ngài dạy pháp.
Câu nói “khi biết hành đoạn tận” (saṅkhārānaṃ khayaṃ ñatvā), nghĩa là sau khi biết rõ sự diệt tận năm uẩn. Hành hay hửu vi (saṅkhāra) ở đây là năm uẩn (pañcakkhandha).
Câu nói “ngươi chứng pháp vô vi” (Akataññū’ si), nghĩa là chứng tri níp bàn. Níp bàn (nibbāna) là pháp vô vi (akataṃ) bởi níp bàn không do cái gì tạo tác, níp bàn không có màu sắc, hình dáng. Pháp vô vi có hai danh từ pāli: Akataṃ và asaṅkhataṃ, đều chỉ cho níp bàn./.
Tỳ kheo Tuệ Siêu biên soạn.
Sādhu🌻🙏 Sādhu🌻🙏 Sādhu🌻🙏
🙏🌻🌼🙏🌻🌼🙏
Phải chi ,,có được cái. CHÃO ,,của Ông E L M thì ,,trên cả tuyệt Sazudhu